Tháng
tám, Thái Hòa năm thứ mười một, phủ Bình Nguyên ở phía Tây Nam Hoàng thành đã bị
thiêu rụi hoàn toàn trong một trận hỏa hoạn nghiêm trọng.
Gần
sáu mươi sinh mạng đã bị thần lửa cướp đi, phần lớn là phụ nữ và trẻ nhỏ.
Cấm
quân đã phong tỏa khu vực xảy ra tai nạn suốt gần một tháng để phục vụ điều
tra, cũng là chừng ấy thời gian người ta thấy số binh lính canh giữ bên ngoài
phủ Lạng Sơn và phủ Tân Bình tăng lên gấp nhiều lần. ''Nội bất xuất, ngoại bất
nhập", các Thân vương gần như bị giam lỏng trong tư phủ của chính mình, chờ
đợi phán quyết từ Cung thành.
Trong
những ngày đó, bên phía Tân Bình Vương, ngoài Nội quan lo việc tiếp thực từ
Hoàng cung, người còn lại có thể thường xuyên ra vào phủ là hai vị Thái y mà
Hoàng thượng đích thân cử tới. Sau hôm trở về từ yến tiệc Trung thu, nhị Vương
gia đã đổ bệnh rất nặng, mê man suốt nhiều ngày liền khiến Hoàng thượng vô cùng
lo lắng. Các vị ở Thái y viện đã tận lực chạy chữa, cuối cùng Tân Bình Vương
cũng hồi tỉnh nhưng sức khỏe yếu đến nỗi mới chuyện trò dăm ba câu đã thở dốc.
Còn một
người nữa khiến các quan Thái y viện phải đau đầu, bất an không kém là Thái phi
Ngô Thị Ngọc Dao. Vừa hay tin dữ tư phủ xảy ra việc chẳng lành khiến toàn bộ
gia thần chết không còn một ai, Thái phi đau lòng tới suy sụp, chẳng thiết, ăn
uống, bỏ cả thuốc thang khiến bệnh tình khó lòng thuyên giảm cho dù Thái y đã dốc
lòng dốc sức. Túc trực bên giường bệnh Ngô Thái phi trong những ngày ấy luôn là
Bình Nguyên Vương.
Tuy
chỉ là sinh mạng của gần sáu chục thường dân và gia thần một phủ nhưng cả Đông
Kinh bỗng chìm trong bầu không khí u ám kỳ lạ với vô số lời đồn thổi bủa vây
cho rằng đây vốn là âm mưu hành thích tứ Vương qia được che giấu trong một vụ hỏa
hoạn.
Giữa
lúc tất cả mọi người còn đang hoang mang phỏng đoán, lẫn lộn giữa hư và thực
thì một nhân vật quan trọng khác đã có mặt ở Đông Kinh mà không một ai lưu tâm
chú ý, đó chính là nguyên Điện tiền đô chỉ huy sứ Nguyễn Đức Trung.
Con
người này luận tài năng, luận công trạng đều xuất chúng hơn người, luận xuất
thân, gia thế lại càng không đơn giản.
Dòng
họ Nguyễn (Gia Miêu) [1]
có sơ tổ Nguyễn Bặc là người bạn thời niên thiếu của ngài Đinh Bộ Lĩnh ở
Hoa Lư, đã cùng người sát cánh dẹp loạn mười hai sứ quân. Sau khi thống nhất
giang sơn, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế,
đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Ngài Nguyễn Bặc được nhà vua
phong làm Định Quốc công, khai quốc công thần. Dòng dõi các đời sau đều có nhiều
vị làm quan tới chức đại thần trải suốt các triều đại Lý, Trần.
[1] Nguyễn
(Gia Miêu): Dòng họ Nguyễn từ ngài Nguyễn Bặc truyền đến đời thứ 10 là ngài
Nguyễn Biện, được phong làm Phụ đạo Huệ quốc công đời nhà Trần. Lúc Hồ Quý Ly
cướp ngôi nhà Trần, ngài Hiện đem gia quyến vào Tây Đô (Thanh Hóa), khai sáng
lãng Giíi Miêu Ngoại Trang (tức làng Quý Hương, thuộc Tông Thương Bạn, huyện Tống
Sơn). Từ đó về sau con cháu lấy đó làm quê quán (nguyên quán), gọi là họ
Nguyễn Gia Miêu (Theo Gia Miêu Bắc Phổ).
Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần rồi để giang sơn rơi vào tay nhà Minh, hậu
duệ đời thứ mười hai của dòng họ Nguyễn Gia Miêu là ngài Nguyễn Bá Lân cùng người
con trai Nguyễn Khản và cháu trai là các ngài Nguyễn Du, Nguyễn Dạ, Nguyễn Công
Duẩn đã tụ nghĩa dưới ngọn cờ kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của Bình
Định Vương Lê Lợi. Trải hơn mười năm nếm mật nằm gai, chiến đấu gian khổ, cuối
cùng đã có thể quét sạch bóng giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi nước Nam.
Đức
Cao Hoàng sau khi lên ngôi đã phong Nguyễn Bá Lân làm Phủ nghị đồng Tam Ty bình
chương quốc quân trọng sự, Nguyễn Khản làm Trấn Quốc đại tướng quân, Nguyễn Du
làm Tuần kiểm, Nguyễn Dạ làm Dũng quốc công, Nguyễn Công Duẩn làm Trung Dũng đức
khai quốc công thần, Phụng trực Đại phu Đô đốc và làm thêm Phụ đạo coi việc dân
sáu huyện Thanh Ba. Gia tộc Nguyễn Gia Miêu chưa có lúc nào rỡ ràng hơn thế.
Nguyễn
Đức Trung là con trưởng của Khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn, ngài nối chí
cha ra làm quan từ thời đức Văn Hoàng [2], từng
giữ chức Điện tiền đô chỉ huy, thuộc võ giai chánh tứ phẩm, cầm đầu cấm quân bảo
vệ Cung thành và trị an Đông Kinh.
[2] (Lê) Văn Hoàng: Thái Tông hoàng đế, vị vua thứ hai của
triều Lê Sơ, vốn là con thứ của thái tổ Lê Lợi, tên húy là Lê Nguyên Long.
Khi
Tiên đế đột ngột băng hà, các đại thần đã phò trợ Thái tử chưa tròn hai tuổi
lên ngôi, mẫu thân người là Thần phi họ Nguyễn trở thành Hoàng thái hậu, buông
rèm nghe chính sự cùng chúng thần bàn bạc việc nước.
Những
năm đầu khi Thánh thượng mới đăng cơ là những năm tháng không hề yên ả.
Hoàng
thượng còn thơ bé, quyết định mọi việc triều chính là một người đàn bà và đám đại
thần râu tóc bạc phơ. Triều cương rối loạn vì các phe phái ngấm ngầm đấu đá.
Trong nước, thiên tai, dịch bệnh hoành hành khiến bách tính lầm than, khốn khổ.
Bên ngoài, phía Nam là Chiêm Thành, phía Tây là Bồn Man liên tục đem quân quấy
nhiễu vùng biên thùy, lại thêm phía Bắc là Minh quốc chưa từng thôi dòm ngó. Cảnh
mẹ góa, con côi ngồi chênh vênh trên ngai vàng quyền lực thực dễ khiến kẻ khác
nảy sinh tà tâm ác ý. Dù trên triều có là người quyền uy, sắt đá đến đâu thì
khi trở về Hậu cung, Thái hậu cũng chỉ là một người đàn bà sức không mang nổi một
thanh kiếm sắt. Trong hoàn cảnh ấy, mọi hành vi của những bề tôi kề cận đều có
liên quan trực tiếp tới an nguy của người và Hoàng thượng.
Giống
như sự việc xảy ra vào đêm Tết Nguyên tiêu [2] năm
Thái Hòa nguyên niên, bọn loạn đảng đã lợi dụng việc trong cung tổ chức yến tiệc
linh đình cúng sao giải hạn cầu an năm mới để trà trộn giả trang thành đám Nội
quan và pháp sư lập mưu hành thích Thái hậu, nếu không nhờ Điện tiền ty Lê Đắc
Ninh khi đó mới chỉ là một lính cấm vệ đương phiên trực kịp thời phát giác rồi
nhanh chóng trình báo lên cấp trên để Điện tiền đô đương nhiệm Nguyễn Đức Trung
có hành động quyết đoán, ra tay nhanh gọn, một mẻ tóm gọn lũ phản nghịch khi
chúng chưa kịp động thủ thì Cung thành đã xảy ra biến cố lớn.
[2] Tết Nguyên tiêu: ngày rằm tháng Giêng (15 tháng 1 âm lịch).
Nhưng
đáng tiếc rằng chính vào đêm ấy, Điện tiền đô lại mất đi đứa con gái mình hết mực
yêu thương bởi tay thần hỏa, mọi sự ban thưởng hậu hĩnh của Thái hậu cũng không
thể khỏa lấp được nỗi đau đớn vì mất mát ấy. Một năm sau ngày đó, Nguyễn Đức
Trung xin Thái hậu ân chuẩn cho từ quan, đưa vợ con về lộ Lang Giang, yên vị với
cuộc sống điền viên không danh phận chức tước trong suốt gần mười năm.
"Đã
lâu quá rồi!" — Thái hậu chầm chậm đưa mắt nhìn một lượt từ đầu tới chân
con người đang quỳ trước mặt mình hành lễ.
Đám Nội
quan và cung nữ vừa trông thấy cái phẩy tay ra hiệu của Thái hậu liền cúi đầu
lui ra. Đợi bọn chúng đi khỏi, Thái hậu mới cất giọng ôn tồn nói với người đó:
''Quan
tướng mau bình thân!"
Nguyễn
Đức Trung khấu đầu thêm lần nữa rồi mới đứng lên, chắp hai tay trước mặt kính cẩn
thưa:
"Đội
ơn Hoàng thái hậu bệ hạ! Kẻ hèn chỉ là hạng thường nhân, không dám nhận về mình
hai chữ "quan tướng"!"
"Khanh
ngồi đi!" — Thái hậu phớt lờ câu nói ấy, chỉ tay vào một chiếc ghế trong
phòng.
Nguyễn
Đức Trung tỏ ra ngần ngại, kể cả trước đây khi còn là quan tứ phẩm triều đình
ngài cũng chưa từng ngồi trước mặt Hoàng thái hậu nữa là giờ đây khi chỉ là một
dân thường thân phận thấp kém.
"Đừng
ngại!" — Thái hậu như đọc ra được ý nghĩ trong đầu ngài, mỉm cười trấn an
— ''Cứ coi như chúng ta là cố nhân gặp mặt, ngồi hàn huyên dăm ba câu chuyện về
thời gian đã qua!"
"Mạt
tướng... Kẻ hèn không dám!"
Thái
hậu bật cười, chiếc quạt trong tay phe phẩy mau hơn.
"Xem
ra khanh vẫn còn nhiều lưu luyến chốn quan trường hơn bản thân mình vốn tưởng đấy!
Thôi được, nếu khanh cảm thấy không thoải mái thì cứ đứng hầu chuyên, ta không
nỡ ép!"
"Kẻ
hèn xin đội ơn Hoàng thái hậu bệ hạ!"
"Quả
là "giang san dễ đổi, bản tính khó dời", suốt mười năm sống cuộc đời
thường dân giản tiện mà khanh vẫn còn nguyên tính đa lễ khi xưa!"
"Kẻ
hèn xin..."
"Thôi
được rồi, những tiếng "đội ơn", "thứ lỗi" hãy bớt nói đi một
chút!" — Thái hậu khoát tay — "Lần này cho gọi khanh hồi kinh là vì có
một việc không thể truyền đạt qua thư mà phải trực tiếp gặp mới có thể nói rõ ý
được!"
Người
nói tới đây thì ngưng lại giây lát, chăm chú nhìn về phía ngài như muốn tìm kiếm
một sự phản ứng nhưng Nguyễn Đức Trung trước sau chỉ im lặng cúi đầu chờ đợi. Thái
hậu mỉm cười nửa miệng, vẻ hài lòng tỏa ra từ ánh mắt, lan khắp gương mặt.
''Ta
luôn cho rằng ở
khanh, sau trung thành thì kiệm lời chính là đức tính đáng quý nhất! Suy đi
tính lại, tuy bên cạnh ta không thiếu thuộc hạ đáng tin cậy nhưng việc đại sự lần
này nhất định không thể giao cho ai khác ngoài khanh! Nhưng trước tiên ta cần
khanh quay trở lại phục vụ triều đình!"
Nguyễn
Đức Trung quỳ sụp xuống, muốn nói điều gì nhưng Thái hậu đã kịp chặn lại:
''Mấy
năm qua khanh sống cuộc đời ẩn cư như vậy là đủ rồi! Khi xưa nể tình khanh vì
chuyện của lệnh nữ mà thương tâm
không ngớt đã chuẩn
y cho
cáo mọi chức
tước đưa gia đình rời xa khỏi Đông Kinh. Nhưng còn nhớ lời ta đã nói, rằng
khanh là người của ta, đến một lúc nào đó khi ta và Hoàng thượng cần quan tướng góp sức,
khanh nhất định không được chối
từ, nay thời điểm ấy đã đến!"
"Kẻ
hèn không dám quên!"
"Tốt!
Nếu đã không quên thì cũng nên sửa lại cách xưng hô mới phải, ta nghe hai tiếng
"kẻ hèn" thốt từ miệng khanh thực chẳng quen tai chút nào! Mau đứng
lên đi!"
"Mạt
tướng... tuân lệnh!"
"Phải vậy
chứ!" — Thái hậu gật gù tỏ vẻ hài lòng, đoạn với tay nâng chén trà lên,
thong thả nhấp một ngụm, đôi mắt đưa về xa xăm như đang giữ bao suy nghĩ trong
đầu — "Khanh trở về Kinh thành đã hơn nửa tháng, liệu đã nghe về vụ việc
đáng tiếc xảy ra ở
phủ Bình Nguyên cách đây không lâu?"
"Bẩm,
mạt tướng có biết!"
"Vậy
chắc cũng biết về việc những kẻ tình nghi bị bắt gần hiện trường vụ việc trong
đêm xảy ra tai họa tự nhận là thuộc hạ của Lạng Sơn Vương sau khi bị tống vào
ngục thất để chờ thẩm tra thì đã bị hạ độc chết cả, mọi manh mối tới đây đều bị
cắt đứt, việc điều tra rơi vào bế tắc?"
Nguyễn
Đức Trung im lặng không đáp. Ngài quả là đã nghe về chuyện đó cùng nhiều lời đồn
đại khác từ tin tức được truyền miệng trong Kinh thành nhưng không dám tự xét
đoán có bao phần thực hư.
"Khanh
tỏ ra thận trọng như vậy hẳn là đã biết cả! Lạng Sơn Vương có liên quan gì đến
vụ việc này hay không hiện giờ chẳng còn căn cứ nào để xác minh. Người đó lại
là bậc Thân vương, không thể tùy tiện bắt bớ thẩm tra, giam lỏng trong tư phủ
như hiện giờ cũng đã là quá lắm, e rằng cách này không thể dùng lâu. Nhưng cũng
không thể cứ để mặc cho mọi chuyện trôi qua như thế!"
Đức
Trung chăm chú lắng nghe, vẻ điềm tĩnh nhẫn nại không bộc lộ thái độ gì rõ rệt
khiến cho cuộc đối thoại giữa hai người thi thoảng lại rơi vào những khoảng lặng
suy tư của Thái hậu.
"Trộm
nghĩ, đại Vương gia nếu thực sự có thể vì việc tranh đoạt ngôi Trữ cung mà chẳng
ngại ra tay với em mình thì e là sau này còn dám làm những điều hơn thế. Vì vậy
mà ta hết sức lo ngại, cảm thấy tuyệt đối không thể giữ Lạng Sơn Vương ở lại
Kinh thành, gần bên Hoàng thượng nhưng nếu đẩy người đó đi xa thì càng cần phải
tăng cường chú ý! Hiện giờ, người mà ta có thể tin tưởng giao cho việc bí mật
giám sát ấy không có ai thích hợp hơn khanh, Nguyễn Đức Trung!
Ngài
nghe tới đó thì sắc mặt thoáng chút đổi khác, nửa kinh
ngạc xen lẫn đăm chiêu nhưng rất nhanh lấy lại vẻ điềm đạm, tận tụy.
"Tuyên
úy đại sứ lộ Lang Giang vừa qua đời vì bạo bệnh, chức quan đó hiện
giờ đang để trống. Theo lý thì có thể cất nhắc Tuyên úy sứ lên thay nhưng nếu để
một cựu võ quan của triều đình tiếp quản vị trí ấy cũng sẽ không gây ra thắc mắc
gì lớn. Đức Trung khanh vốn là võ giai chánh tứ phẩm, bấy nhiêu năm sinh sống
làm ăn ở đó đã có thể coi là dân địa phương. Chuyến này trở về khanh sẽ nhanh
chóng nhận được chỉ dụ của Hoàng thượng thăng làm Tuyên úy đại sứ!"
"Có
lẽ nào Thái hậu bệ hạ định đưa Lạng Sơn Vương về nơi biên thùy xa xôi hẻo lánh ấy?"
"Đúng
vậy!" — Thái hậu gật đầu xác nhận — "Chậm nhất là một tháng sau khi lộ
Lang Giang có Tuyên úy đại sứ mới, đại Vương gia sẽ tiếp nhận ý chỉ rời khỏi
Kinh thành để tói đó. Không chỉ mình Lạng Sơn Vương mà cả Tân Bình Vương cũng sẽ
đi khỏi Đông Kinh tới một nơi yên tĩnh để tiện việc dưỡng bệnh, về phía nhị
Vương gia, ta sẽ tự có sắp xếp khác!"
Trong
lúc mọi người còn đang lạc lối giữa màn sương mù của những điều ngờ vực, Thái hậu
đã đi xong một nước cờ quan trọng.
Kết
thúc của việc cạnh tranh ngôi vị Trữ cung, không ai trong số các huynh đệ của
Hoàng đế được chọn ngoài người duy nhất có thể ở lại Kinh thành là Bình Nguyên
Vương.
Đại
Vương gia vướng phải nghi án lớn, nhị Vương gia đổ bệnh trầm trọng, các đại thần
tâm phúc luôn theo ủng hộ cũng đành bó tay không có cách gì lật lại tình thế.
Xem ra sau tai họa kinh hoàng xảy đến với Bình Nguyên phủ, người được lợi nhất
lại chính là tứ Vương gia.
"Vị Vương gia mười hai tuổi, người con cuối
cùng của Tiên đế, Hoàng tử duy nhất không được sinh ra trong nhung gấm!"
— Những ý nghĩ về Bình Nguyên Vương cứ vương vấn mãi trong đầu Nguyễn Đức
Trung kể từ lúc ngài bước chân ra khỏi cửa cung Vĩnh Ninh cho tới tận khi xe ngựa
dừng lại trước cửa An Xương quán.
Người đánh xe thắng ngựa, nhanh nhẹn nhảy xuống, vòng ra
phía sau vén rèm cho chủ nhân bước ra.
Rèm vừa vén, ngài chợt sững lại trước những gì đang bày
ra trước mắt : phu nhân, con trai ngài và cả đứa con gái tưởng như không
bao giờ có thể nhìn thấy lại nữa, tất cả đều đang nở nụ cười ấm áp chào đón người
cha mới đường xa trở về.
"Không! Đứa
trẻ đó không phải là Hằng!" – Ngài nhắm mắt lại, âm thầm
nhắc nhở mình.
Nhưng khi đôi mắt vừa mở ra, nụ cười mong manh trên
gương mặt ngọt ngào non nớt ấy lại như những hạt muối xát vào vết thương chưa
khép miệng khiến Nguyễn Đức Trung bất giác phải gồng mình chống chọi lại cảm
giác đau đớn tận tâm can.
"Mọi người ra đây là gì?" Ngài hỏi, né
tránh nhìn về phía cô bé "Hôm nay trời nổi gió, mau đưa mẹ các con vào
nhà!"
"Vâng, thưa cha!" Công tử Vĩnh lễ phép
đáp.
"Vâng, thưa cha!" Liền sau đó là một giọng
nói trong như khánh ngọc.
Nguyễn Đức Trung dừng lại một nhịp, đưa mắt về phía
ấy, bắt gặp cái nắm tay rất chặt như không muốn buông của phu nhân đối với cô
bé. Trên gương mặt thường u ám của bà dường như sắc xuân đang trở lại. Phu nhân
nhìn chồng, nhoẻo miệng cười hiền từ, vẻ mãn nguyện dâng đầy nơi đáy mắt. Ngài
mỉm cười đáp lại, dẫu có bao suy nghĩ khác đều gượng nén chặt trong lòng, vùi
xuống mấy tầng sâu, chìa tay về phía trước, có ý ân cần đón lấy tay vợ từ tay
cô bé.
"Vào nhà cả thôi!" Phu nhân nói với mọi
người, một tay đưa ra nắm lấy tay chồng, tay kia vẫn giữ chặt năm ngón tay mảnh
dẻ của con bé không rời cứ như thể sợ rằng nếu buông ra thực tại viên mãn này
sẽ biến mất, đứa con gái mà bà thương nhớ suốt mười năm nay sẽ tan như ảo ảnh. Ví như đây chỉ là một
giấc mơ, bà ao ước mình sẽ không bao giờ tỉnh lại, nếu không bà làm sao có thể
chịu được việc mất đi con gái lần thứ hai?
Theo
như khẩu dụ của Hoàng thái hậu, những ngày gia đình ngài có thể lưu lại Đông
Kinh không còn bao nhiêu, cần phải mau chóng trở về Lang Giang trước khi chiếu
chỉ của Hoàng thượng ban xuống. Nguyễn Đức Trung đã lệnh cho gia nhân sắp xếp đồ
đạc để chuẩn bị lên đường. Điều khiến ngài còn băn khoăn duy nhất chính là đứa
trẻ xa lạ mới xuất hiện trong gia đình mà phu nhân luôn quấn quýt, coi như thế
thân của ái nữ đã mất cách đây mười năm.
Đứa
trẻ chạy thoát từ vụ hỏa hoạn kinh hoàng đêm Trung thu liệu có mấy phần liên
quan tới những nghi vấn xung quanh ba vị Vương gia và những gì đã xảy ra đêm ấy?
Vì sao cả đám người hùng hổ phải cất công lùng sục khu rừng, xới tung từng ngọn
cỏ để bắt lại bằng được chỉ một đứa trẻ non nớt? Và điểm kỳ lạ nhất chính là
sau khi con bé tỉnh lại, những điều nó có thể kể ra là chuyện đã xảy ra trong
gia đình họ Nguyễn mười năm trước, cứ như thể nó chính là Hằng chứ không phải
ai khác. Nhưng làm sao có thể? Hằng đã chết rồi, tự tay ngài đã chôn cất đứa
con gái xấu số đáng thương của mình bằng tất cả nỗi thống khổ như cào nát trái
tim mà đến nay vẫn còn lưu lại sẹo.
"Thưa
cha, cha đang có điều gì bận tâm ư?" — Tiếng công tử Vĩnh cất lên bên tai
cắt ngang mạch suy nghĩ của ngài.
Nguyễn
Đức Trung ngẩng lên nhìn con, mỉm cười hiền từ:
"Không
có gì nhiều! Nhìn mẹ con mỗi ngày lại thêm hồng hào tươi tắn cha tự thấy vui
trong lòng!"
Công
tử đưa mắt trông theo hướng phụ thân mải nhìn nãy giờ, ra là ngoài hiên nhà, mẫu
thân đang thêu áo còn cô bé gối đầu kề bên, cảnh tượng ấy vừa êm đềm, vừa ấm
áp,tưởng như quá đỗi thân thuộc vậy mà bao lâu nay trong gia đình này không còn
thấy được. Trên môi công tử bất giác nở một nụ cười.
Nguyễn
Đức Trung trông vậy liền hỏi con trai:
"Con
cảm thấy chuyện này ra sao?"
''Thưa
cha, có phải ý cha là về chuyện cô bé ấy đột nhiên xuất hiện trước mắt chúng
ta, có gương mặt giống hệt chị gái con năm xưa?"
"Phải,
không chỉ gương mặt mà giọng nói, cử chỉ, thói quen đều như khuôn đúc! Cha lo rằng
mẹ con sẽ không thể xa rời được đứa trẻ ấy! "
"Xa
rời ư, thưa cha?" — Công tử tỏ ra kinh ngạc — "Vì sao?"
"Đến
từ đâu phải trả về nơi ấy!" — Ngài đáp, vẻ cương quyết — "Chẳng lẽ
con đã quên đứa trẻ này được tìm thấy trong đêm phủ Bình Nguyên bốc cháy? Lai lịch
của nó ra sao không ai rõ nhưng đây là chuyện có liên quan tới Hoàng thất và
triều đình, chúng ta không thể suy nghĩ đơn giản!"
"Thưa
cha, con lại nghĩ một đứa trẻ yếu ớt nhường ấy thì có thể góp phần gì trong sự
vụ kinh hoàng liên quan tới những nhân vật quyền thế nhất đất nước này? Con chỉ
biết từ khi có cô bé ấy,
mẹ của con đã không còn ủ rũ, thuốc không cần uống mà bệnh cũng tự khỏi. Đứa trẻ
ấy không là gì khác ngoài thang thuốc chữa tâm bệnh của mẹ con!"
Nguyễn
Đức Trung im lặng không đáp, ánh mắt nhìn về xa xăm. Lời của con trai không phải
không có ý đúng, ngược lại, đó còn là một nửa suy nghĩ trong ngài, đối lập với
phần âu lo ngờ vực kia.
"Thưa
cha!"
"Con
cứ nói!"
"Đứa
trẻ này áng chừng chỉ mười, mười một tuổi, cũng là chừng
ấy năm chị gái con không may qua đời. Ngày thường nghe mẹ tụng kinh niệm Phật,
giờ lại tận mắt trông thấy điều này, dường như con cũng tin là trên đời này thực
sự có chuyện đầu
thai chuyển
kiếp!"
Công
tử nói rồi quỳ sụp xuống chân ngài, dập đầu sát đất.
"Mẹ
con trải qua từng ấy năm sống leo lét như ngọn đèn trước gió, yếu đuối đến nỗi
cứ như thể chỉ cần thở mạnh một hơi cũng có thể vụt tắt bất cứ lúc nào! Trước
khi cô bé xuất hiện, bấy lâu nay con chưa từng trông thấy mẹ tươi cười trở lại.
Đứa trẻ đó dù có là ai và đến từ đâu đi chăng nữa trong lòng con đã sớm coi như
người chị đã mất của mình!"
Lời của
con trai như gõ mạnh vào tâm trí ngài khiến dư âm còn mãi, văng vẳng lúc gần
lúc xa. Lại có lúc ông cảm thấy đây có lẽ là định mệnh sắp đặt, dù may mắn hay
tai họa cũng đã là số kiếp không thể tránh khỏi.
Nhìn
phu nhân cười nói quấn quýt bên đứa trẻ khác hẳn với tâm trạng ủ dột thiểu não
nhiều năm nay, Nguyễn Đức Trung càng thêm quyết tâm gạt đi mối âu lo mơ hồ
trong lòng. Khuya hôm đó, ngài nói với vợ:
"Hai
ngày nữa chúng ta sẽ rời khỏi Đông Kinh trở về Lang Giang!"
Phu
nhân nghe chồng nói thì giật mình thảng thốt, liếc nhìn sang đứa trẻ đang gối đầu
ngủ yên lành bên cạnh.
"Con
cái tất nhiên phải đi cùng cha mẹ!" — Ngài hiểu điều vợ mình lo lắng, liền
mỉm cười trấn an.
Đôi mắt
bà đầy ắp niềm vui mừng lẫn nhẹ nhõm, phu nhân đáp lại chồng bằng nụ cười ẩn chứa
bao cảm kích, rồi đưa tay vuốt nhẹ lên mái đầu xanh mướt của con bé, khe khẽ gọi:
''Hằng,
con ngoan!"
''Mọi
người mau lên xe thôi!" — Tiếng hô lớn của người đánh xe ngựa bên phía
Nguyễn lão gia là hiệu lệnh khởi hành.
Khi tới
đây chỉ có hai chiếc xe ngựa và sáu người lớn, tới lúc trở về số xe đã tăng gấp
năm lần. Tám chiếc xe chở đầy của cải cùng đám gia nhân mới đến là phần thưởng
bí mật ban xuống của Thái hậu, Nguyễn Đức Trung hiểu rằng mình chỉ có thể nhận
mà không được phép từ chối.
Trong
đám người mới ấy có một bé gái tên Mai cũng trạc tuổi Hằng, mặt mũi sáng sủa,
tác phong nhanh nhẹn, tính tình lại xởi lởi, hồn nhiên. Phu nhân cảm thấy rất
ưng ý nên đã chỉ định nó làm tì nữ riêng theo hầu nhị tiểu thư.
Hằng
và đứa tì nữ ngồi riêng một xe, Nó có vẻ phấn khởi, háo hức khi lần đầu tiên được
ở trong một chiếc xe rộng, đẹp đến vậy, cứ liên tục ngó nghiêng, lật lên xem
xét hết cái này tới cái khác rồi lại xuýt xoa tán thưởng. Một hồi lâu mới giật
mình sực tỉnh, len lén nhìn về phía tiểu thư thăm dò nét mặt như sợ rằng mình
đã khiến chủ nhân bực dọc vì hành xử vô phép. Nhưng nhị tiểu thư chẳng mấy để
tâm tới nó, chỉ ngồi im nhìn qua khung cửa, ánh mắt xa xăm hướng ra bên ngoài,
người khẽ rung rinh theo nhịp của bánh xe.
"Tiểu
thư!" — Con bé Mai rụt rè lên tiếng.
"Ừ!"
— Hằng đáp, không ngoái đầu lại.
“Cô
đang nhìn gì vậy?" — Chịu không nổi, nó tò mò sán lại ngồi bên, ngó qua cửa
sổ trông theo hướng Hằng đang nhìn.
Ráng
chiều đỏ rực như vệt máu loang loáng cuối chần trời, thi thoảng lại dội lên âm
thanh tiếng quạ thê lương, càng khiến không gian thêm não nề, u ám.
Đằng
xa là khung cảnh tiêu điều của nơi từng là phủ đệ vị Thân vương được Hoàng thượng
sủng ái nhất, bây giờ chỉ còn trơ lại những cột nhà cháy đen nham nhở, những tầng
mái đổ nát trên nền gạch kìn kịt tro tàn và bùn đất.
"Đằng
ấy là Bình Nguyên phủ, nơi ở cũ của tứ Vương gia và vị Thái phi họ Ngô! Tiểu
thư là người ở
xa đến chắc không biết cách đây hơn một tháng chỗ ấy đã xảy ra một trận hỏa hoạn
vô cùng thảm khốc làm chết gần sáu chục mạng người nhưng may mà hai vị chủ nhân
tối đó đều dự yến tiệc trong cung nên không có bề gì nguy hiểm!"
"Vậy
sao?" — Hằng hững hờ đáp.
Lại một tiếng quạ
vang lên như muốn xé nát không gian. Mùi tang tóc theo cơn mưa giội xuống ngấm
vào lòng đất, len lỏi, luồn lách, hòa vào những mạch nước ngầm dưới tận tầng
sâu nhất.
"Mưa rồi!
Mưa trái mùa!" — Con bé Mai bật kêu lên, thò bàn tay ra cửa sổ hứng lấy những
giọt nước mắt của trời.
"Ta chợp mắt
một lát!" — Hằng nói, quay người vào trong, ánh mắt thôi không hướng ra
bên ngoài.
Mai
khẽ "vâng" rồi vội vàng với tay rút cho sợi dây buộc bung ra để rèm cửa
hạ xuống.
Chiếc
xe vẫn lắc lư đều đặn, tiếng mưa rơi xuống đập vào nóc thùng xe tạo ra âm thanh
"lộp bộp". Con bé Mai lắng tai nghe tiếng ếch nhái kêu trong bụi, tiếng
mời gọi bạn tình ra rả, râm ran.
"Cơn
mưa này chắc sẽ rơi lâu đấy!" — Nó lẩm nhẩm một mình, liếc mắt về phía tiểu
thư. Lần đầu tiên nó được đàng hoàng thong thả ngắm nhìn nàng ở vị trí gần như
thế.
Ráng
chiều đỏ ối len qua khe cửa rọi sáng gương mặt nàng, đôi môi mềm mại, sống mũi
thanh cao, hai hàng mày xanh mướt mềm như liễu rủ, đôi mi khép chặt cong như
cánh cung. Bất chợt một hạt châu sa rơi ra từ khóe mắt, vẻ xinh đẹp lộng lẫy bỗng
nhuốm màu đau thương thê thiết khiến con bé Mai không khỏi kinh ngạc.
"Tiểu
thư khóc đấy ư?" — Nó hỏi nhưng không có tiếng ai trả lời, chỉ có âm thanh
"lộp độp" của mưa rơi đập trên mái.
Thêm
một giọt lạnh buốt rơi ngay má nó, Mai ngẩng lên, phát hiện ra một lỗ hổng nhỏ
trên nóc thùng xe. Nó vừa rút khăn trong túi nhét tam vào chỗ thủng, miệng vừa
lẩm nhẩm:
"Té
ra là nước mưa, không phải nước mắt!"
Đoàn
xe cứ thong thả lăn bánh, mỗi lúc một đi xa khỏi An Xương quán, xa Cung thành,
xa nơi đổ nát tiêu điều từng một thời là tư phủ vị Thân vương được sủng ái nhất
trong số các huynh đệ của Hoàng đế, người được dân chúng trong vùng ca tụng là
bậc tài hoa xuất chúng, cốt cách thanh cao hiếm có trên đời.
Đoàn
xe dừng lại chốc lát, cũng vừa lúc Hằng tỉnh giấc, nàng mở mắt nhìn đứa nô tì
thấy con bé đang vén rèm trông ra bên ngoài.
"Tại
sao không đi nữa?"
"Tiểu
thư, cô dậy rồi ư?" — Con bé Mai quay lại, nhoẻn cười tươi tắn với nàng —
”Đã đến cổng Nam thành rồi, bất cứ ai đi qua lại đều phải dừng để quan binh kiểm
tra giấy thông hành! Chúng ta đã ra tới vùng ngoại ô rồi! Từ đây trở đi không
còn là Hoàng thành nữa! Ra khỏi đây đi thêm một đoạn ngắn sẽ tới bến thuyền, muốn
đi lên phía Bắc phải đổi từ xe ngựa qua thuyền lớn!"
Nàng
gật nhẹ đầu, không đáp.
"Ôi
chết, em lại nhiều lời rồi! Chẳng nhớ ra tiểu thư vốn là người miền Bắc!"
"Ngươi
là người ở đâu tới? Ở đây bao lâu rồi?"
"Thưa,
em theo cha mẹ lưu lạc tới đây đã được ba năm, trước kia nhà ở phủ Diễn Châu
[3]!"
[3] phủ Diễn Châu: nay thuộc tỉnh
Nghệ An.
"Ừm,
nghe giọng cũng đoán ngươi là người miền Nam [4]!
Ngươi đi theo ta, vậy còn thân phụ mẫu thì sao?"
[4] Miền Nam: thời này, nước ta
chưa có lãnh thỗ mở rộng tới tận phía nam như ngày nay, nên vùng Nghệ An được gọi
là “miền Nam”.
"Thưa..."
— Nó ngập ngừng, vẻ xúc động lộ rõ trong giọng nói — "Vừa tới đây được nửa
năm thì cha mẹ em cùng nhiễm phải bệnh dịch, bệnh nặng lại không có tiền mua
thuốc chữa trị nên đều không qua khỏi!"
Tới
lúc này, Hằng mới chăm chú nhìn nó từ đầu tới chân, ánh mắt cảm thông, nhẹ
nhàng hỏi:
''Vậy
còn mộ phần, ngươi đi thế này, lấy ai chăm sóc mộ phần cho họ?"
"Thưa,
vì là mọi dân chết bởi bệnh dịch nên không được chôn cất như bình thường, bị
gom chung với những tử thi khác rồi hỏa thiêu tập thể!"
Vẻ
kinh hoàng hiện cả trên gương mặt Hằng, lần đầu tiên nàng nghe thấy những điều
kinh khủng đến thế.
"Hố
thiêu tập thể ấy ngoài những người có chức trách, dân chúng không ai được phép
đến gần để tránh lây lan mầm bệnh!" — Con bé Mai tiếp tục — “Đến khi thiêu
xong chỉ còn lại tro cốt cũng không được lấy mang về, cho nên cha mẹ em và những
người cùng bị hỏa thiêu đều không ai có mộ phần!"
Hằng
khẽ thở dài, muốn nói vài câu an ủi nhưng đầu óc trống rỗng chẳng tìm ra được lời
nào thích hợp, đành im lặng quay người, vén rèm nhìn ra xa xăm.
Việc
xuất trình dường như đã xong xuôi, người đánh xe vút roi quất ngựa, chiếc xe chầm
chậm lăn bánh khởi hành. Từ bên trong nhìn ra, Hằng thoáng có cảm giác choáng
ngợp trước bức tường thành cao lừng lững uy nghiêm. Cánh cổng bằng gỗ lớn màu
nâu trầm không rõ vì mưa nắng hay vốn dĩ là nước sơn nguyên bản dần dần khép lại
phía sau.
Đoàn
người rời khỏi Đông Kinh, trời mưa vẫn không ngớt, một cơn mưa kéo dài như lời
con bé Mai tiên đoán.
''Tiểu
thư!" — Nó ngoảnh lại nhìn nàng, rụt rè lên tiếng.
"Ừm?"
''Chúng
ta có bao giờ quay trở lại Đông Kinh nữa hay không?"
Hằng
không vội đáp, ánh mắt cứ hướng mãi về nơi đoàn xe vừa đi qua. Cho tới khi con
bé Mai cũng tưởng nàng chẳng hề để tâm tới điều nó hỏi thì đột nhiên nhận được
câu trả lời khẽ khàng tựa tiếng gió thoảng bên tai, mơ hồ như làn sương khói
giăng ngang bầu trời chiều tàn úa:
"Chết
trong biển lửa, tái sinh cũng từ lửa... Đông Kinh, duyên nợ này sao có thể dễ
dàng chặt đứt ở đây?"
Đó
là một ngày tháng chín năm Quý Dậu, Thái Hòa năm thứ mười một.
Hai tháng sau, ngày hai mươi mốt tháng mười một,
Hoàng thượng bắt đầu đích thân coi chính sự, đổi miếu hiệu,
đại
xá thiên hạ. Từ tháng giêng năm sau đổi là Diên Ninh nguyên niên.[5]
[5] Trích Đại Việt sử ký toàn thư, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18
(1697).