"Chết
hết rồi, năm mươi tám mạng người!"
Nguyễn
Đức Trưng thả mình xuống ghế, mồ hôi trên trán chảy thành dòng xuống gương mặt
lấm lem bụi khói. Ngài nói, không giấu nổi vẻ thẫn thờ trong ánh mắt khi vừa phải
tận mắt chứng kiến gần sáu chục xác người cháy đen co quắp được người ta cật lực
bới ra từ đống tro tàn đổ nát sau trận hỏa hoạn kinh hoàng.
''Năm...
mươi tám?" — Đại công tử run giọng nhắc lại, gương mặt vốn đã xanh xao lại
như càng thêm tái.
"Khi
ta tới nơi, ngọn lửa đã bốc cao hơn đầu, vòng trong vòng ngoài bốn bề đều một
màu đỏ rực, không có cách nào tiến gần, đành bất lực đứng nhìn thần lửa tàn phá
mọi thứ trước mắt..."
''Khủng
khiếp quá!" — Người tì nữ của phu nhân nghe vậy thì bưng mặt sợ hãi, không
dám nghĩ tiếp.
''Đứa
trẻ đó thế nào rồi?" — Nguyễn lão gia thở dài buồn bã — "Đã tỉnh lại
hay chưa?"
Công
tử Vĩnh đáp lại câu hỏi của cha bằng một cái lắc đầu chậm rãi.
"Thầy
lang nói sao?"
"Thưa
cha, cô bé bị kiệt sức, thêm vào đó tinh thần lại hoảng loạn quá độ!"
"Dù
sao cũng phải đợi con bé tỉnh lại mới có thể hỏi kĩ về chuyện đã xảy ra! Trong
khi ta ở đó,
quân lính cũng vừa hay tin mà kéo tới nhưng đã quá muộn, ngọn lửa đã thiêu rụi
tất cả, những gì còn lại chỉ là một đống tro tàn đổ nát cùng những xác người
cháy đen không thể phân biệt già trẻ, gái trai!"
"Cha
có nói cho họ biết về việc cô bé ấy chạy tới cầu cứu?"
"Chưa!"
— Ngài trả lời ngắn gọn, đơn giản hơn nhiều so với những gì đang suy nghĩ trong
đầu. Linh tính mách bảo ngài có chuyện gì đó rất kỳ lạ, khó hiểu, thậm chí là mờ
ám đằng sau vụ hỏa hoạn tàn khốc ấy. Tuy cảm giác đó chỉ mơ hồ thoáng qua nhưng
vẫn khiến Nguyễn Đức Trung bận lòng không yên, cho nên ngài đã lặng lẽ rời đi
mà không nói với bất kỳ ai khác về đứa trẻ đang ở chỗ mình.
''Mẹ
con đâu?"
''Thưa
cha, từ lúc bấy đến giờ mẹ vẫn luôn ở bên cô bé!"
Nguyễn
lão gia khẽ gật đầu, cầm lấy chiếc khăn nhúng vào thau nước mà tì nữ vừa bưng tới
cho mình, dùng nó để lau sạch mặt và đôi bàn tay ám khói, lại thay lớp áo ngoài
bằng một tấm áo mới sạch sẽ, xong đâu đó mới bước vào gian phòng bên trong.
Trên
chiếc giường đơn giản kê sát tường, đứa trẻ nằm bất động, mồ hôi rịn lấm tấm
trên trán được phu nhân nhẹ nhàng thấm khô. Bà nắm lấy bàn tay với những ngón
dài mảnh dẻ của cô bé trong tay, ánh mắt không lúc nào rời khỏi gương mặt tái
nhợt non nớt ấy, ngay cả khi cảm nhận được những bước chân khẽ khàng của chồng
đang tiến đến bên cạnh.
"Thật
tội nghiệp! Con bé không ngừng khóc cả trong cơn mê sảng!" — Bà nói mà
không ngẩng lên nhìn chồng.
''Những
người chết ở đám cháy đó có lẽ đều là người thân của cô bé!" — Ngài buông
tiếng thở dài đầy thương cảm.
"Có
chuyện gì đã xảy ra với gia đình con bé vậy?"
"Đó
là..." — Nguyễn Đức Trung ngập ngừng giây lát rồi mới tiếp tục — "Nơi
xảy ra vụ hỏa hoạn là phủ Bình Nguyên!"
Phu
nhân nghe nói, đôi mắt ánh lên vẻ sững sờ, rất lâu sau mới cất nên lời:
"Năm
mươi tám mạng người phủ Bình Nguyên ư? Điều này còn hơn cả sự kinh khủng! Thực
khiến lòng thiếp hồi tưởng lại sự việc xảy ra với chúng ta năm đó!"
Bà
nghẹn ngào, biết bao suy nghĩ trong đầu chỉ muốn giãi bày ra cùng chồng nhưng lời
nói bỗng tắc nghẹn nơi cổ họng, biến thành tiếng nấc khẽ tuôn ra cùng hai hàng
nước mắt.
Ngài
xích lại gần hơn, áp đầu vợ vào mình, đôi bàn tay chai sạn thô ráp vì nghiệp
cung kiếm nhẹ nhàng trượt theo mái tóc đã điểm bạc, không còn mượt mà xuống tới
đôi bờ vai đang rung lên khe khẽ.
Phu
nhân bất giác thả lỏng mình, tựa hẳn vào người chồng rấm rứt thành tiếng. Họ ôm
lấy nhau, mỗi người một tâm trạng nhưng ánh mắt cùng nhìn về đứa trẻ đang nằm
mê man trên chiếc giường bên cạnh.
“Nghĩ
lại thì chuyện này quả thực vô cùnq kỳ lạ!" — Phu nhân đột nhiên nhớ ra, vội
rút khăn thấm khô nước mắt trên hai gò má, ngẩng lên nhìn chồng — "Rõ ràng
ban nãy toán người ấy còn hùng hổ nói rằng đang lùng bắt một nô tì trộm đồ của
chủ nhân! Sao đứa trẻ trộm đồ ấy giờ lại biến thành thân nhân của những người
chết cháy ở phủ Bình Nguyên?"
Nguyễn
Đức Trung gật gù:
"Ngay
từ lúc bọn chúng xộc đến chặn đầu nằng nặc đòi khám xét xe ngựa của người qua
đường, ta đã cảm thấy có điều gì đó khuất tất! Lại thêm đứa trẻ này được tìm thấy
trên người còn nguyên mùi khói khét, quần áo cháy xém, nhiều chỗ trên cơ thể phỏng
rộp, khi được đỡ lên chỉ nói được một câu xin hãy cứu lấy người nhà con bé. Kế
cả phu nhân không có ý
bao che thì ta cũng không định tin lời đám người đó mà giao nộp đứa trẻ này
ra!"
"Chủ
nhân của phủ Bình Nguyên chẳng phải là tứ Vương gia và Ngô Thái phi hay sao? Liệu
các vị ấy có gặp nạn trong đám cháy hay không?" — Phu nhân hỏi, giọng căng
thẳng.
Ngài
ngẫm nghĩ giây lát rồi lắc đầu, khẳng định chắc nịch:
"Ta
đoán là không đâu! Hôm nay là Tết Trung thu, trong cung hẳn đang tổ chức yến tiệc
lỉnh đình. Khách khứa được mời tới dự chắc chắn đều đã nhập cung trước giờ Dậu.
Từ Bình Nguyên phủ tới Cung thành muốn đi thong thả mà vẫn đến đúng giờ, ta
đoán Vương gia và lệnh bà đã rời khỏi phủ muộn nhất cũng là đầu giờ Thân. Còn
phủ Bình Nguyên bất lắm cũng chỉ mới bốc cháy chừng độ hơn canh giờ trước thôi,
thời gian ấy tứ Vương gia và lệnh bà đã yên vị trong cung lâu rồi!"
Nguyễn
phu nhân khẽ thở phào khi biết được Bình Nguyên Vương và Ngô Thái phi vẫn bình
an, nếu không Tết Trung thu lại trở thành ngày đại tang của đất nước.
"Vậy
thì đám người kỳ lạ kia hẳn có liên quan tói nguyên nhân của vụ cháy! Đây có lẽ
không phải là tự nhiên phát hỏa mà do có người cố ý gây nên!"
''Phu
nhân cũng cảm thấy như vậy ư?" — Nguyễn Đức Trung gật gù đồng tình —
"Cho nên ta đã không nói với ai về việc tìm thấy đứa trẻ này! Chúng ta cần
đợi cô bé tỉnh dậy để nghe chính miệng cô bé kể lại những gì nó biết hoặc nhìn
thấy!"
"Con
bé... thật là... giống với..." — Phu nhân nhìn chăm chăm xuống đôi mắt nhắm
nghiền của đứa trẻ, nghẹn ngào nói không nên câu.
Nguyễn
lão gia ngồi xuống bên vợ, nắm chặt lấy đôi bàn tay đang run rẩy của bà, nhẹ
nhàng khuyên nhủ:
"Con
gái chúng ta đã qua đời cách đây mười năm! Đứa trẻ này tuy có vẻ ngoài rất giống
nhưng không phải là Hằng, phu nhân đừng nghĩ ngợi nhiều!"
"Thiếp
biết chứ!" — Bà đáp, đôi mắt ngân ngấn lệ — "Nhưng quả thực là chúng
giống nhau đến kỳ lạ! Dù thêm chục năm nữa, thiếp cũng không thể quên được
gương mặt con gái chúng ta! Con bé mới xinh đẹp làm sao, ngoan ngoãn làm sao,
đáng thương làm sao! Hằng, con ơi!"
Nguyễn
Đức Trung thở dài không nói. Chẳng riêng gì phu nhân, bất cứ ai đã từng biết mặt
Hằng nếu nhìn vào đứa trẻ ngày hôm nay chắc sẽ đều lầm tưởng trông thấy cùng một
người. Ngay cả ngài, một người đầy lý trí cũng không tránh khỏi một khoảnh khắc
đầy nghi hoặc, bối rối.
Đứa
con gái đầu lòng của ngài, một đứa trẻ thật xinh đẹp, đáng yêu mà sau mãi bảy
năm lấy nhau vợ chồng ngài mới có được. Phu nhân vẫn luôn tin rằng đó là đứa
con cầu tự thần Phật ban cho, con bé cũng được sinh ra vào một đêm trăng rằm
sáng rõ như đêm nay nên ngài đã chọn đặt cho con cái tên Hằng vừa dịu dàng, vừa
diễm lệ.
Năm
năm sau đó, tin vui lại đến trong nhà, phu nhân sinh hạ một tiểu công tử kháu
khỉnh đặt tên là Vĩnh, ghép tên con trai và con gái được chữ "vĩnh hằng",
ngụ ý nguyện ước cuộc đời bọn trẻ sẽ mãi được ấm êm, an lành. Gia đình đầy đủ cả
nếp lẫn tẻ, tròn đầy viên mãn khiến người khác nhìn vào thì không khỏi ngưỡng mộ.
Thêm
mấy năm nữa, trong triều xảy ra rất nhiều biến cố, lôi kéo hầu hết đại thần văn
võ vào vòng thị phi sóng gió. Theo ai, chống ai, từng đường đi nước bước đều phải
cân nhắc kĩ lưỡng nếu không muốn chịu cùng số phận thảm khốc như Đại tư đồ Lê
Sát, Đại đô đốc Lê Ngân, Quận vương Lê Tư Tề... cuộc đời từng có lúc vô cùng
oanh liệt, đến cuối cùng lại ê chề bỏ mạng vì một chén độc tửu vua ban.
Chiến
trường và triều chính đều khốc liệt như nhau, có khác chăng một bên là những trận
chiến thiên binh vạn mã, máu chảy thành sông nhưng ít nhất còn có thể nhìn rõ kẻ
địch phía trước, còn một bên là những cuộc đấu đá ngấm ngầm, không chỉ bàn tay
vấy máu mà nội tâm cũng hôi tanh, mới vừa là bằng hữu nhưng chỉ cần một cái ngoảnh
mặt quay lưng, tức thì đã biến thành kẻ thù chẳng đội trời chung.
Giữa
vòng xoáy thị phi ấy, sự xuất hiện của sủng phi họ Nguyễn bên cạnh Hoàng đế đã
làm thay đổi tất cả. Chỉ sau một cái chớp mắt của mỹ nhân, Hậu cung thay chủ
khiến cho cán cân quyền lực giữa các phe phái trong triều đình cũng phải xoay
chuyển theo.
Sau
khi Tiên đế băng hà, tam Hoàng tử lên nối ngôi, Thần phi trở thành Nhiếp chính
Hoàng thái hậu. Tuy bề ngoài nhìn vào mọi việc đều thuận lợi nhưng bên tronq
Thái hậu và ấu chúa chính là cảnh mẹ góa con côi, phải đối mặt với biết bao hiểm
nguy không thể nhìn thấy trước. Thế lực lớn nhất đe dọa tới ngôi vị và mạng sống
của họ chính là phe thân cận Thái tử Lê Nghi Dân, cho rằng Tiên đế vì yêu mẹ bế
con mà phế trưởng lập thứ là quyết định chẳng những không thỏa đáng mà còn đi
ngược lòng người. Cục diện trong triều khi ấy hết sức rối loạn, nếu không phải
Thái hậu là người cứng rắn, khôn ngoan, lấy được sự ủng hộ từ những đại thần
như Trịnh Khả, Lê Thụ thì có lẽ người và Hoàng thượng đã sớm bị kéo xuống khỏi
ngai vàng tuy vinh quang mà chông gai, lạnh lẽo.
Trong
những tháng ngày căng thẳng ấy, công lao của Điện tiền đô chỉ huy Nguyễn Đức
Trung đối với hai vị chủ nhân Cung thành là không hề nhỏ. Tuy không phải nghị
chính đại thần, cũng không ở trên triều trực tiếp tham gia luận bàn chính sự
nhưng an nguy của người trong Hoàng thất, đặc biệt là Thái hậu và Hoàng thượng,
đều đặt cả trong tay Điện tiền đô chỉ huy. Không ít kẻ từng tìm đủ mọi cách để
lôi kéo thậm chí gây sức ép buộc Nguyễn tướng quân về theo phe lật đổ ấu chúa,
nếu khi đó, Đức Trung ngài là kẻ hám lợi hay hèn nhát, nảy sinh chút lòng nào phản
trắc thì e rằng tính mạng của bề trên đã khó mà giữ được.
Đêm ấy,
Nguyễn tướng quân ở trong cung nhận được mật báo đã bày binh mai phục, một mẻ
quét sạch đám loạn đảng, đập tan âm mưu hành thích Thái hậu. Thật chẳng ngờ,
cùng lúc đó, phủ Điện tiền xảy ra một trận hỏa hoạn lớn. Nguyễn Đức Trung bảo vệ
được Thái hậu và Hoàng thượng nhưng lại không ngăn chặn được tai họa giáng xuống
gia đình mình, vĩnh viễn để mất đi đứa con mà vợ chồng ngài yêu thương hết mực
trong tai nạn đó.
Có lẽ
cả cuộc đời này, Nguyễn tướng quân sẽ không bao giờ quên được hình ảnh vợ mình ở
giữa đống tro tàn, ôm trong tay thi thể đứa con bé bỏng bị ngọn lửa hung tàn hủy
hoại, miệng không ngừng gào khóc gọi tên Hằng.
Phải
tận mắt chứng kiến cái chết của con gái, hằng ngày nhìn con trai vật lộn trong
đau đớn vì hít phải nhiều khói độc, phu nhân đau lòng đến ngã bệnh.
Một
năm sau ngày giỗ của con, mọi việc trong cung cũng đã dần ổn thỏa, Nguyễn Đức
Trung quyết định từ quan, đưa gia đình rời khỏi Đông Kinh về quê hương phu nhân
ở lộ Lang Giang để bà được ở nơi cảnh sắc yên bình, thân thuộc mà an tâm dưỡng
bệnh. Thái hậu tuy muốn giữ ngài ở lại nhưng trước sự khẩn cầu tha thiết của
ngài, lại nghĩ đến nỗi đau mà Nguyễn Đức Trung đã phải trải qua, đành miễn cưỡng
gật đầu chấp thuận.
Lời
cuối cùng người nói với ngài trước lúc rời khỏi Đông Kinh chính là:
"Quan
tướng đau lòng vì việc nhà, ta hoàn toàn thấu hiểu nhưng thiếu đi một người có
thể tin tưởng đối với ta mà nói chính là một tổn thất không nhỏ. Nay tuy khanh
không còn muốn lưu lại
trên chốn quan trường nhưng vẫn là người của ta, đến một lúc nào đó khi ta và
Hoàng thượng cần quan tướng góp sức, khanh nhất định không được chối từ!"
Và
như thế, gần mười năm Nguyễn Đức Trung sống cuộc đời lặng lẽ cách xa Kinh thành
là mười năm ngài âm thầm dõi theo những biến cố xảy ra trong Hoàng cung, linh
tính sẽ có một ngày phải trở lại nơi ấy. Thật không ngờ ngày trở lại Đông Kinh
ngài đã gặp được đứa trẻ giống hệt với đứa con đã mất của mình, chạy thoát khỏi
bàn tay thần lửa - kẻ năm xưa đã tước đoạt mạng sống của Hằng, cũng vào một đêm
trăng tròn như đêm nay.
"Phải
chăng đây chính là số mệnh?" —
Ngài nhìn đứa trẻ được phu nhân ôm trong vòng tay, miệng mấp máy muốn nói nhưng
chẳng bật thành lời.
"Cháy!
Cháy rồi!"
"Mau
dập lửa!"
"Cứu
hỏa! Cứu hỏa! Mang nước lại đây nhanh lên!"
Giữa
những tiếng hô hoán, giục giã, đám người làm trong nhà phải cố gắng lắm mới phá
được một phần vách tường bên hông căn buồng để đưa phu nhân thoát ra ngoài sau
khi không cách nào vào bằng đường cửa chính vì lửa bén dữ dội đã khiến những
thanh xà trên trần rơi rụng xuống đất chắn ngang lối đi.
Phu
nhân cơ thể mềm oặt vì sặc khói, đôi mắt cay xè không thể nhìn rõ những ai xung
quanh, vẫn cố túm lấy cánh tay đang dìu mình bước xa khỏi đám cháy, giọng hoảng
loạn pha lẫn cầu xin:
''Còn
công tử Vĩnh! Các người mau quay lại cứu con trai ta!"
''Phu
nhân nói sao cơ? Đêm qua công tử không ngủ với bà vú mà ở lại chỗ người
ư?" — Đứa nô tì kinh hãi kêu lên.
Bà gật
đầu lia lịa, chỉ tay về phía đám cháy, nơi bà vừa được kéo ra, hổn hển nói:
"Công
tử vẫn còn ở trong đó! Mau lên!"
Gã cuống
quýt quay sang gắt bọn nô tài:
''Còn
không nghe thấy sao? Mau đi cứu công tử!"
"Nhưng
lửa bốc dữ quá rồi! Chỉ e là bây giờ..." — Giọng một người khác vang lên
bên tai.
Phu
nhân mở bừng mắt, lao bổ lại túm lấy cổ áo hắn, bao nhiêu sức lực còn lại trong
người đều dồn cả vào cái gồng mình ấy. Bà nói như hét, lại như kêu khóc van
xin:
"Mau
cứu lấy con ta! Xin các người!"
Gã bật
lùi lại mấy bước, ánh mắt hoang mang liếc nhìn về nơi lửa đang bốc cao ngùn ngụt.
Ban nãy xông vào để cứu phu nhân, khắp nơi trong căn phòng đều là một màu đỏ rực,
khói bốc mù mịt vây bủa toàn thân, suýt nữa thì không thở được, gã chỉ kịp nhìn
thấy một cơ thể người lớn đang nửa nằm, nửa ngồi dưới chân giường, rũ ra vì ngạt
khói, chẳng kịp nghĩ ngợi quan sát, vội lao tới xốc nách phu nhân chạy băng ra
ngoài. Vừa chạy vừa cảm thấy sau lưng lưỡi lửa gần táp đến, chui ra tới bên
ngoài thì nghe tiếng loảng xoảng rơi vỡ vọng ra, xem chừng lại có thêm nhiều xà
nhà bị lửa bắt cháy rơi rụng xuống dưới. Ngay lúc ấy nếu có biết là công tử vẫn
còn ở bên trong chưa chắc đã có người dám quay trở vào để ứng cứu chứ đừng nói
là đến tận giờ này.
"Phu
nhân..."
Đương
khi gã còn đang bối rối tìm lời thoái thác thì một bóng người chạy vụt qua, lao
về biển lửa. Những người có mặt chỉ kịp hét lên một tiếng: "Tiểu
thư!" thì cái bóng đã chui vào màn lửa.
Phu
nhân kinh hãi nhìn theo, ú ớ không ra hơi, ánh mắt dâng đầy sự bất lực, lảo đảo
suýt ngã.
Tất cả
cùng nhào về phía ấy, kẻ hét, người la, í ới gọi tên:
"Tiểu
thư! Mau quay ra! Nhà sắp sập rồi, nguy hiểm lắm!"
Sau
màn lửa bập bùng, Hằng bỏ ngoài tai những lời can ngăn ấy, thoăn thoắt trở mình
luồn lách qua những chướng ngại để tìm ra khe hỡ mà chỉ có cơ thể trẻ con mới
có thể lọt qua. Thoắt cái đã không còn thấy bóng dáng nàng đâu nữa. Ai nấy đứng
ngoài đều nín thở chờ đợi.
Những
tiếng nổ lách tách mỗi lúc một mau hơn, từng đợt gió thổi đến như luồng hơi từ
chiếc quạt ba tiêu làm bùng thêm ngọn lửa.
Đúng
lúc ấy thì cánh cửa thông gió bật ra, công tử Vĩnh thò đầu ra ngoài vừa ho sặc
sụa, vừa khóc mếu vì sợ hãi. Mọi người ùa tới, hò nhau bắc ghế đứng lên phụ đỡ
công tử trườn ra.
Cái cửa
thông gió ấy chỉ cỡ trẻ con chín mười tuổi trở xuống mới chui lọt, lại ở tít
trên cao nên ban nãy không ai nghĩ tới việc chui vào bằng đường ấy- Nay tiểu
thư liều lĩnh xông vào bên trong mói phát giác ra chỗ đó lửa chưa kịp bắt tới,
đủ thông thoáng để hai đứa trẻ cùng thoát. Hằng tìm thấy Vĩnh đang một mình
khóc mếu ở
góc nhà, vội chạy tới xé mảnh chân váy làm dải khăn bịt quanh mũi miệng cậu bé,
kéo tay em trai chạy về hướng mình vừa chui vào nhưng lửa phía ấy đã bốc lên
ngùn ngụt, không thể luồn qua được nữa. Đảo mắt một vòng đánh giá tình hình, cuối
cùng Hằng quyết định chạy về phía chưa bắt lửa. Hằng trông lên ô cửa thông gió
rồi quỳ xuống nhìn thẳng vào mắt Vĩnh, dặn dò:
''Em
nín đi! Bây giờ đứng lên vai chị, xô mạnh cánh cửa trên cao kia ra, đến lúc ấy
tha hồ khóc thật to để gọi người lớn tới, nghe không?"
Đứa
trẻ tròn năm tuổi đang cơn hoảng loạn vẫn cố gắng gật đầu đáp lại lời dặn của chị
gái. Hằng dùng hết sức bình sinh nhấc bổng Vĩnh đặt lên vai mình, gồng người vịn
vào tường đứng thẳng dậy. Chiều cao của hai đứa trẻ gộp lại vừa đủ để Vĩnh tới
được ô cửa ấy. Nhớ lời chị dặn, cậu bé xô mạnh một cái, cánh cửa bật mở, luồng
dưỡng khí từ bên nqoài lùa vào khiến đứa trẻ trở nên tỉnh táo hơn, Vĩnh vừa ho,
vừa cố gào thật to.
Công
tử được người lớn lôi ra ngoài lành lặn, tuy toàn thân mềm nhũn vì vừa phải trải
qua những phút giây kinh sợ nhưng sắc mặt vẫn hồng hào. Mọi người khẽ thở phào
mừng rỡ. Nhưng tiểu thư vẫn kẹt lại bên trong, cửa thông gió lại cao hơn khả
năng với tới của một đứa trẻ.
"Tiểu
thư đâu rồi?" — Đám người làm nhốn nháo giục giã.
"Tôi
ở ngay đây! Tôi không sao! Giờ sẽ đứng lên ghế để chui ra!"
Nhưng
đó là câu nói cuối cùng mà người ta nghe thấy từ nàng.
Hàng
loạt những âm thanh rơi vỡ khủng khiếp vang lên tạo ra một cơn rung lắc kinh
hoàng. Đám người bên ngoài hét lên một tiếng, bám tay nhau bật lùi, bất lực
nhìn toàn bộ ngôi nhà đổ sập xuống. Lửa chờm lên, khói bụi phun ra tạo thành một
lực đẩy rất mạnh ủn tất cả mọi thứ xung quanh bắn ra xa.
Gương
mặt thoáng bừng lên hi vọng khi công tử Vĩnh được đưa ra ngoài lành lặn của phu
nhân chợt chuyển màu tím ngắt, bà rú lên một tiếng thê lương rồi đổ ập người xuống
như thân cây bị quật ngã trong dông tố.
"Thí
chủ! Người vừa trông thấy ác mộng sao?"
Nguyễn
phu nhân choàng mở mắt, giọng của vị đại sư trầm trầm vang lên bên tai. Bà đờ đẫn
đưa mắt nhìn ngài, cảm nhận rõ rệt dòng chảy của những giọt mồ hôi lăn từ trên
trán qua má xuống hõm vai.
Phu
nhân mệt mỏi cúi đầu trước vị đại sư, sực nhớ ra mình đang trong thời gian tụng
kinh cầu siêu cho con gái, vừa nhắm mắt lại lắng nghe tiếng gõ mõ thì đã chìm
sâu vào cơn mộng mị hoang đường.
"Bạch
thầy! Phật tử vừa trông thấy lại cảnh tượng kinh hoàng trước đây, chính là vụ hỏa
hoạn đã cướp đi sinh mạng đứa con gái bé bỏng của con! Mọi thứ bày ra trước mắt
chân thật quá khiến con tưởng như trái tim mình phải chết lần thứ hai!" —
Bà nói, lồng ngực như thắt lại.
"Điều
mà thí chủ vừa trải qua ấy gọi là "thân trung uẩn chiêm bao".
''Thân
trưng uẩn chiêm bao? Bạch thầy, xin thứ lỗi cho Phật tử mông muội không hiểu hết
ý tứ sâu xa!"
"Thân
trung uẩn là "trạng thái trung gian", thời gian quá độ giữa "chết"
và ”đầu thai", có thể hiểu nôm na đó là sự sống sau khi chết, trước khi thần
thức của con người đi tái sinh vào nơi mà mình có thể khế hiệp với nghiệp của
mình trong sáu cõi [1].
"Thân trung uẩn chiêm bao" là một trong sáu "thân trung uẩn",
cũng là một trạng thái trung gian dung chứa tiềm năng cho các trạng thái thâm
sâu của tâm thức, tuy chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi lẫn lộn giữa thực và ma
nhưng đã thấy được những sự vật mà người trần mắt thịt không thấy được".
[1] Sáu cõi: lục đạo luân hồi. Theo quan điểm Phật giáo, tùy
vào nghiệp của chún sinh mà sau khi chết, chúng sinh đó có thể tồn tại dưới dạng
thân trung ẩn một thời gian, rồi tái sinh vào một trong sáu cõi với cuộc đời mới.
Sáu cõi bao gồm: Cõi trời (deva)/ Cõi thần (asura)/ Cõi người (manussa)/ Cõi
súc sinh (tiracchanayoni)/ Cõi ngạ quỷ (quỷ đói) (petta)/ Cõi địa ngục
(niraya). Sau khi tái sinh, đa số các chúng sinh sẽ không còn nhớ bất cứ điều
gì về kiếp trước đó.
"Bạch
thầy, vậy điều Phật tử đã thấy mang ý nghĩa gì?"
"Giấc
mơ về cái chết chính là điềm báo của sự sống! Người mà thí chủ nhìn thấy có lẽ
đã sớm được đầu thai chuyển kiếp!"
"Nếu
đã đầu thai, còn sống trong kiếp này liệu có cách nào để Phật tử nhận ra thế
thân của con gái mình?" — Phu nhân vội hỏi lại, đôi mắt ánh lên tia hi vọng
xen lẫn hồi hộp.
"Đứa
trẻ của thí chủ là nhờ thành tâm cầu khẩn mà có được, tuy sinh ra mang tới bao
hạnh phúc cho cha mẹ nhưng đáng tiếc lại sớm phải lìa xa. Trước đây bần tăng từng
nói với thí chủ: Những đứa con cầu tự cũng giống như người thần tiên thác xuống
trần gian, đối với họ, sự sống và sự chết xảy ra trong cõi đời trần tục đều bởi
vì cần gánh vác một sứ mệnh nào đó. Nay thí chủ hỏi về việc có thể nào nhận ra
được chuyển thế của con gái mình, bần tăng chỉ có thể trả lời bằng một câu:
"Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương
phùng". Nếu sứ mệnh người ấy gánh vác ở
lần đầu thai chuyển kiếp này có liên quan tới thí chủ thì sớm muộn gì hai người
cũng sẽ nhận ra nhau, bằng không hãy cứ sống cuộc đời của mỗi người đừng kiếm
tìm vô ích!"
Vị đại
sư nói rồi chậm rãi đứng lên, bước ra ngoài. Phu nhân một mình ngồi dưới chân
tòa Tam bảo, bần thần nhẩm lại những lời ngài nói, đôi mắt dán chặt vào bóng
dáng đang dần đi xa. Chợt đại sư dừng bước, không ngoảnh lại, giọng nói âm vang
như khánh ngọc vẳng đưa tới bên tai phu nhân:
''Người
đã đầu thai, hà tất phải tụng kinh cầu siêu! Từ nay về sau thí chủ không cần tiếp
tục làm những việc này nữa, cũng đã tới lúc nên buông bỏ nỗi khổ đau giày vò
tâm trí ấy đi rồi!"
Tiếng
nói còn ở lại mà bóng người đã khuất dạng từ lâu, phu nhân ngỡ ngàng nhìn quanh
nhưng chỉ thấy một vùng trống vắng, tòa Tam bảo trước mặt cũng tự nhiên nhạt
nhòa đi không còn trông rõ nữa. Phu nhân cất giọng thảng thốt gọi với theo:
''Thưa đại sư! Thưa đại sư!"
"Phu
nhân! Thưa phu nhân!"
Phu
nhân giật mình mở mắt mới biết rằng mình vừa thiếp đi trên ghế, hóa ra tất cả đều
là mơ.
Mộng
lồng trong mộng khiến người ta không khỏi cảm thấy mơ hồ như người lạc trong
màn sương mà mất phương hướng. Bà mệt mỏi ngước lên nhìn người tì nữ vừa lay gọi
mình, khẽ hỏi:
"Có
chuyện gì thế?"
"Thưa,
hình như đứa trẻ ấy đã tỉnh lại rồi!" — Cô ta đáp, rụt rè đưa mắt liếc
nhìn về phía chiếc giường bên cạnh.
Phu
nhân nghe xong thì bừng tỉnh, bật khỏi lưng ghế, ghé sát lại gần gương mặt đứa
trẻ, nỗi vui mừng khấp khởi vô cớ dâng lên trong mắt.
Cô bé
quả thực đã tỉnh lại, hai hàng mi khẽ động đậy rồi từ từ mở ra, để lộ đôi mắt
đen thăm thẳm. Đứa trẻ nhúc nhích cánh tay, khó nhọc giơ lên, hướng về phía người
phụ nữ ngồi trước mặt mình, miệng mấp máy muốn nói điều gì đó. Nguyễn phu nhân
chìa tay đỡ lấy bàn tay đang cố với lên ấy, lại trao về con bé cái nhìn vừa
chăm chú, vừa âu lo.
"Mẹ...
ơi!" — Đứa trẻ nhìn sâu vào đôi mắt bà, khẽ cất tiếng gọi, đứt quãng nhưng
rõ ràng.
No comments:
Post a Comment